Nhập
ngũ, sau ba tháng huấn luyện tân binh, học điều lệnh nội vụ, đội ngũ và bắn đạn
thật xong bài một, tôi được điều về tiểu đoàn công binh huấn luyện kỹ thuật
binh chủng, để chuẩn bị tăng cường lực lượng cho biên giới Tây Nam.
Đơn
vị chuyển quân đến huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây – một vùng đồi núi nhấp nhô, cây
cối trơ trụi lá vì nắng hạn. Mùa hè ở đây nắng như đổ lửa. Đứng trên đồi nhìn
bốn phía xung quanh, lúp xúp những bụi sim, bụi mua, vài chục mái nhà tranh
thấp tè nằm rải rác trên những thửa ruộng khô cằn. Nhìn dưới chân đồi, chỉ thấy
trắng xóa một màu bạc phếch. Hình ảnh của một vùng quê nghèo đã làm tắt lịm
những mơ ước lãng mạn trong trí tưởng tượng của cậu học trò Hà Nội 18 tuổi vừa
rời ghế nhà trường lúc đó như tôi. Buồn chán nhưng tôi vẫn phải chịu đựng vì
nhiệm vụ và kỷ luật của đơn vị.
Trung đội tôi đóng quân ở nhà dân. Tôi được phân công ở nhà bác Thoan. Nhà bác
ở cuối làng. Hôm đầu chuyển quân đến, anh cán bộ trung đội trưởng dẫn tôi đi
hết con đường làng gồ ghề “sống trâu” rồi rẽ vào một căn nhà lá lụp xụp. Tiếng
chó sủa, bác Thoan chạy ra tươi cười mời chúng tôi vào nhà. Anh cán bộ trung
đội trưởng giới thiệu tôi với bác Thoan, nói vài câu xã giao, nhắc tôi chú ý
làm tốt công tác dân vận rồi vội vã xin phép bác chủ nhà tiếp tục đi làm nhiệm
vụ.
Bác Thoan ở một mình. Căn nhà lá ba gian sơ sài của bác chỉ có một cái giường
cũ và một cái chõng tre. Bác Thoan nhường tôi nằm giường, còn bác nằm chõng.
Bác coi tôi như con đẻ trong nhà. Năm đó bác Thoan đã ngoài 50 tuổi nhưng tính
tình vui vẻ, đôn hậu. Buổi tối ở vùng trung du vắng vẻ, khá lạnh và buồn, nên
cánh lính mới chúng tôi ít đi chơi. Khi đó lại đang mùa thu hạch khoai lang nên
tôi thường ở nhà giúp bác nhặt khoai. Mỗi buổi tối như thế, bác kể rằng, bác đi
lấy chồng từ năm 17 tuổi, nhưng nếu tính tổng cộng thời gian chung sống chỉ vẻn
vẹn vài tháng. Chồng bác là bộ đội kháng chiến chống Pháp. Một lần trước khi đi
Nam chiến đấu, ông được về phép thăm nhà và lần ấy bác Thoan sinh được bé Ngần,
để rồi sau đó, ông không bao giờ quay trở lại. Hơn 10 năm sau, bác mới biết tin
bác trai mất. Hôm UBND xã tổ chức làm lễ truy điệu, bác Thoan khóc nhiều lắm.
Năm đó bác ốm nặng. Đó là những năm bác chôn chặt khổ đau mất mát vào lòng,
gắng gượng nuôi con và dồn tất cả tình cảm cho bé Ngần. Thấm thoát đã mười tám
năm trôi qua kể từ khi bé Ngần cất tiếng khóc chào đời… Bỗng bác Thoan thở dài,
ngước nhìn lên trời. Đêm tháng 5, bầu trời đầy sao. Ánh trăng cuối tháng mỏng
manh yếu ớt soi xuống mái tóc bác Thoan ánh một màu bàng bạc. Từ trong khóe mắt
của bác, tôi thấy ngân ngấn những giọt nước long lanh. Giọng nghẹn ngào, bác
kể: “Cái Ngần nhà bác là đứa ngoan ngoãn, chịu khó và rất thương bác. Năm
ngoái, bác Hải phục viên về làng, bị thương cụt một tay, lại phải sống một
mình. Bác thấy tội nghiệp nên thường sang săn sóc, giúp đỡ bác Hải. Có lẽ vì sợ
bác đi bước nữa nên Ngần không đồng ý với việc làm của bác, nhưng bác thì nghĩ
khác, già chừng ấy tuổi rồi còn làm bạn với ai nữa. Một lần nó nhìn thấy bác
múc nước tắm cho bác Hải, thế là nó bỏ cơm nằm khóc suốt đêm, bác giải thích
thế nào nó cũng không nghe. Một tuần sau đó, nó đi theo một đơn vị công nhân
cầu đường vào tận miền Trung. Lúc đó nó mới 17 tuổi. Từ ngày đi, nó không viết
thư về nhà. Vừa rồi, một cô ở làng bên cùng đơn vị với nó về phép thăm nhà,
sang đây chơi, nên bác mới biết địa chỉ của nó. Lúc nào rảnh, cháu viết thư
động viên nó hộ bác…”.
Mấy ngày sau, tôi viết thư cho Ngần. Tôi kể chuyện nhà, chuyện tôi đến ở nhờ và
chuyện bác Thoan thương tôi như con… Gần một tháng sau, một hôm đi tập về, bác
Thoan rối rít đưa cho tôi lá thư mới nhận được của Ngần gửi cho bác và bảo tôi
đọc cho bác nghe. Trong thư Ngần kể chuyện đơn vị, công việc, tình hình sinh
hoạt, sức khỏe và không quên hỏi thăm tôi. Nét chữ có đoạn nhòe nhoẹt, Ngần
viết: “Đi rồi con mới thấy thương mẹ vô cùng, nhưng không thể bỏ đơn vị mà về
lúc này, cũng may có anh Thành đến ở nhà ta nên con cũng thấy yên tâm hơn. Mẹ
cho con gửi lời cám ơn anh Thành…”.
Từ đó, tôi và Ngần trở thành bạn của nhau. Mỗi lá thư gửi cho mẹ, Ngần lại gửi
một lá thư riêng cho tôi. Thư qua thư lại, dù chúng tôi chưa một lần gặp mặt
nhưng tình cảm giữa tôi và Ngần ngày càng thân thiết. Biết chuyện bác Thoan như
trẻ ra.
Mùa đông năm ấy, một lần nửa đêm, tôi bị sốt cao mê man. Bác Thoan cùng hai
chiến sỹ trong đơn vị thay nhau cõng tôi đi bộ 5km đường đồi đến trạm xá sư
đoàn. Dọc đường trời tối, bước thấp bước cao, chân bác vấp đá tóe máu. Ấy thế
mà sáng hôm sau bác đã tất tả mang một thúng thóc ra chợ bán lấy tiền mua 2 hộp
sữa mang đến thăm tôi. Tôi nhận là cốt để bác vui lòng, chứ thừa biết hoàn cảnh
của bác lúc đó cũng khó khăn lắm.
8 tháng huấn luyện tân binh kết thúc. Chúng tôi được nghỉ ngơi, ăn Tết và trong
tư thế sẵn sàng đợi lệnh lên đường làm nhiệm vụ. Tết năm đó, tôi ăn Tết ở đơn
vị và ở nhà bác Thoan. Dù chẳng có gì nhưng vui và ấm áp. Mồng 5 Tết, tôi đang
sinh hoạt ở đơn vị thì bác Thoan chạy ào đến và nhờ người xin phép cho
tôi ra ngoài.
- Thành này! Cái Ngần nhà bác… Cái Ngần nó về rồi đấy! Bác đã bảo thế nào nó
cũng về mà!... Nó đang mong gặp cháu lắm đấy!...
Tôi theo bác về nhà, lòng rạo rực. Vừa thấy tôi về đến cổng, Ngần chạy vội ra
đón, ấp úng chào, rồi chui tọt xuống bếp đun nước. Hai má cô đỏ bừng. Tôi sững
sờ nhìn Ngần. Không ngờ một cô công nhân cầu đường lại có vóc dáng mảnh mai,
khuôn mặt thanh tú và trắng trẻo đến vậy. Một vẻ đẹp giản dị, chân chất, dịu
dàng toát ra từ một cô gái đồng quê. Bác Thoan cắp rổ đi chợ. Tôi giúp Ngần chuẩn
bị làm bữa cơm sum họp đầu năm. Khoảng cách giữa chúng tôi ngắn dần. Tối hôm
đó, bà con trong xóm kéo đến chúc Tết và chia vui với bác Thoan rất đông. Căn
nhà lá của bác như bừng sáng. Sau phút sum họp nhộn nhịp của gia đình, Ngần mới
có thời gian trò chuyện riêng với tôi.
- Anh Thành! Tết này không được về, anh có thấy nhớ
nhà không? Em chưa đặt chân đến Hà Nội bao giờ, nhưng nghe nói dân nhà quê ra
đó hay bị chê là “Tẩm” phải không anh? Mấy chị đơn vị em nghỉ phép, ra Hà Nội
mua bánh mì về quê làm quà bị mấy người Hà Nội cùng đơn vị cười, chê là quê.
Sao người ta lại cười hả anh? Các anh Hà Nội chắc chẳng bao giờ yêu các cô gái
nhà quê đâu nhỉ? Mà, nói chuyện các anh ấy toàn dùng tiếng lóng, khó hiểu lắm!
Chẳng hạn như: Đi buôn thì bảo “đánh quả”, lãi thì bảo “vào cầu”, lỗ thì bảo
“móm răng” v.v…
Tôi ngẩn người ngạc nhiên và bỗng bật cười trước những câu hỏi ngây thơ của
Ngần. Tôi từ tốn giải thích cho Ngần nghe cặn kẽ mọi điều. Kể cho Ngần nghe về
thủ đô ngàn năm văn hiến, thơ mộng và đẹp như thế nào… Kể về những chiều thu Hà
Nội trời se se lạnh, tôi đã cùng bạn bè trai gái đi bơi thuyền và dạo chơi
quanh Hồ Tây, xúm xít chia nhau những chùm me xanh chua lạnh người, những quả
bàng đỏ ối ngọt lịm thơm mùi thơm rất lạ mà chúng tôi vừa hái được. Tôi kể
chuyện có một năm mất mùa, đói kém, mẹ tôi đã từng nuôi hai người cùng làng ở
quê lên Hà Nội xin ăn v.v… và cuối cùng tôi đã khẳng định với Ngần rằng: Người
Hà Nội không chỉ biết yêu, biết tôn trọng tình cảm thật mà còn sẵn sàng biết hy
sinh chia sẻ những gian khổ khó khăn, thiếu thốn với nhân dân các địa phương
trong cả nước suốt những năm dài đánh Mỹ…
Chẳng biết lúc ấy có hương hồn nhà thơ, nhà văn nào nhập vào tôi xui khiến mà
bỗng nhiên tôi nói hay như vậy! Ngần nghe tôi kể say sưa, mắt không chớp. Bỗng
tôi nhìn thấy trong mắt cô, ánh lên những tia sáng rực rỡ lung linh đủ mọi sắc
màu. Bất ngờ Ngần thốt lên: Ước gì em cũng được ở Hà Nội!!...
Ngần về phép được một tuần thì đơn vị tôi nhận lệnh lên đường đi làm nhiệm vụ.
Nghe tin tôi sắp đi xa, chiều hôm ấy bác Thoan nghỉ không đi làm đồng, ngồi bần
thần ở giữa nhà. Sực nhớ ra điều gì, bác lấy chiếc màn cá nhân của tôi ra khâu
lại mấy lỗ thủng mà chính tôi cũng chẳng để ý. Ngần ríu rít rủ tôi lên phố
huyện chụp ảnh kỷ niệm. Thời gian như trôi đi nhanh hơn. Hơi xuân ấm áp tràn về
khắp mọi nhà. Con đường gồ ghề sỏi đá hôm nào bỗng chốc đỏ rực màu hoa râm bụt.
Tối hôm đó, đoàn thanh niên xã tổ chức giao lưu văn nghệ tiễn đưa bộ đội lên đường
rất vui. Thanh niên, bộ đội, trai gái trong làng tập trung chật kín sân đình.
Ngần đi với mấy cô bạn từ chập tối. Sân khấu treo đèn, kết hoa sặc sỡ. Ban nhạc
sống “Hương quê” chuyên phục vụ các đám cưới trong làng được huy động ra phục
vụ. Sau lời phát biểu của các đồng chí lãnh đạo xã và đơn vị, là các tiết mục
văn nghệ. Không khí hừng hực vui như ngày hội. Mưa xuân lất phất bay ướt áo,
nhưng mọi người vẫn hát say mê. Tôi đang cố sức tìm xem Ngần đang ngồi đâu thì
anh Bí thư chi đoàn xã giới thiệu Ngần lên hát. Từ trong đám đông, Ngần mạnh
dạn bước lên sân khấu với dáng vẻ rất bình tĩnh, tự tin. Ngần mặc chiếc áo hoa
mới nhất, trông cô tươi tắn như một bông hoa hồng mới nở. Cả sân đình lặng đi
khi giọng hát trong trẻo, ấm áp của cô cất lên. Bài “Tình ca” của nhạc sỹ Hoàng
Việt được thể hiện qua giọng hát của cô đúng vào giờ phút chia tay ấy như tiếp
thêm sức mạnh cho chúng tôi lên đường. “… Giữ lấy đức tin bền vững em ơi, giữ
lấy trái tim đòi sống yêu đời…”. Bỗng giọng cô lạc đi, nhỏ dần rồi tắt lịm. Bất
ngờ cô nấc lên ôm mặt chạy về chỗ ngồi. Tiếng vỗ tay rào rào không dứt…
Buổi liên hoan văn nghệ kết thúc thì trời đã khuya. Ngần nán lại sau giúp mấy
anh chị trong xã thu dọn đồ đạc. Tôi ở lại chờ Ngần. Dọc đường về nhà, tôi và
Ngần đi bên nhau chậm chạp như đếm từng bước. Tôi nhẹ nhàng hỏi:
- Sao lúc nãy Ngần lại khóc? Im lặng hồi lâu, Ngần
ngập ngừng trả lời:
- Chẳng hiều sao lúc đó em lại nghĩ đến cha và anh. Mẹ em kể rằng, cũng tại sân
đình này, mẹ đã tiễn cha đi bộ đội và hôm đó, mẹ đã hát cho cha nghe rất nhiều
những bài hát mà mẹ thích…
Tôi xúc động lặng người, nắm chặt lấy tay Ngần và nhìn rất lâu vào đôi mắt
trong veo, ngơ ngác của cô. Tôi bỗng thấy như đang đứng trước mặt một thiên
thần… Bất ngờ tôi ôm lấy Ngần, vòng tay nắm chặt hai bờ vai mảnh dẻ của cô và
hôn lên đôi môi đỏ mọng mịn màng…
Ngần đẩy nhẹ, rồi lặng im trong tay tôi. Đêm yên tĩnh, tôi nghe rõ từng nhịp
đập con tim run rẩy của cả hai người. Ngần ngước nhìn tôi thì thầm:
- Sau này, anh nhớ về đây đón em ra Hà Nội anh nhé!
Tôi gật đầu, nắm bàn tay mềm mại của Ngần và nói một
lời hứa đinh ninh:
- Nhất định anh sẽ về đây đón em.
Ngần cười thật hạnh phúc, rồi bỗng sực tỉnh giục tôi:
-
Về thôi anh kẻo mẹ đang mong chúng mình ở nhà đấy!
Chúng tôi dắt tay nhau đi nốt quãng đường còn lại. Dưới ánh trăng, con đường
làng hiện ra mông lung, huyền ảo. Vườn thiên lý nhà ai trồng nở hoa thơm ngất
ngất, lạ lùng… Về đến nhà, vẫn thấy bác Thoan thức ngồi chờ hai đứa. Tôi và
Ngần như người bị mắc lỗi len lén mắc màn đi ngủ. Nhưng suốt đêm hôm ấy tôi
không sao chợp mắt. Giường bác Thoan và Ngần thỉnh thoảng lại có tiếng động trở
mình. Hình như cả bác Thoan và Ngần cũng thức…
Hôm sau, bác Thoan dậy từ 3 giờ sáng, bắt con gà mái mơ giết thịt gói vào nắm
xôi cho tôi mang đi theo. Ngần cũng dậy sớm phụ mẹ và tíu tít giúp tôi gói buộc
quân trang, hành lý. Ngoài ngõ ríu rít tiếng cười, tiếng nói, tiếng chào hỏi,
tiễn đưa. Cả xóm thắp đèn sáng choang.
Bác Thoan và Ngần tiễn tôi đến đầu làng nơi chiếc xe ô tô của đơn vị đang chờ
sẵn. Mắt Ngần đỏ hoe, cô nắm nhẹ bàn tay tôi nói nhỏ:
- Anh đi bình an nhé! Đừng quên mẹ và em… Hết nghĩa
vụ… Nhớ… Giọng cô nhòa trong tiếng nấc nghẹn ngào. Bác Thoan quay mặt đi giấu
những giọt nước mắt lăn dài trên má.
Trước lúc lên xe ô tô, đáng lẽ tôi phải nói với Ngần
một câu gì đó thật ý nghĩa thì chẳng hiểu sao lúc ấy tôi lại thốt ra những câu
hết sức vô duyên, chẳng ăn nhập gì với cảnh chia tay lúc ấy:
- Anh đi đây! Em ở lại phải cố gắng phấn đấu để trở thành một Bí thư chi đoàn
giỏi nhé!
Xe chạy. Tôi giơ tay vẫy chào bác Thoan và Ngần. Bóng hai người chấp chới lùi xa
về phía sau, nhòa trong khói và bụi đất đỏ… Đến lúc này, tôi mới nhận ra rằng,
cái xóm nghèo vùng trung du đất đồi toàn sỏi đá ấy cũng thơ mộng và dễ thương
như nơi đã từng sinh ra tôi vậy.
Tình hình biên giới căng thẳng. Đơn vị tôi hành quân đến nhiều nơi, di chuyển
địa điểm liên tục. Tôi cũng được trên điều động chuyển từ đơn vị này sang đơn
vị khác. Gần một năm sau, tôi bị mất liên lạc với Ngần. Từ đó, chúng tôi không
biết tin tức gì về nhau nữa. Dù vậy, đến đâu tôi cũng mang theo hình ảnh bác
Thoan và Ngần. Mang theo hương vị ngọt ngào và men say ngất ngây của mối tình
đầu, chính điều đó đã giúp tôi quên đi vất vả của người lính với những đêm hành
quân mồ hôi ướt đẫm áo, quên đi những cơn sốt rét giữa rừng già, giúp tôi vượt
lên những phút giây mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc…
5 năm sau, chuyển ngành ra khỏi quân đội, tôi vội vã nhập vào đội quân đi lao
động ở nước ngoài và hình ảnh vùng quê trung du ấy đã tạm thời bị lãng quên ở
trong tôi. Tôi lao vào kiếm sống, mưu sinh, hy vọng sau này sẽ tích lũy được
một số vốn để về nước giúp đỡ gia đình. Nhưng rồi mong ước ấy đã không thành
hiện thực. Toàn bộ tài sản của tôi sau 5 năm tích cóp ở nước ngoài đã bị mất.
Tôi trở về nước với hai bàn tay trắng, một chút mặc cảm nhưng rồi tôi vẫn quyết
định trở lại vùng quê ấy tìm Ngần. Vừa đặt chân đến đầu làng. Lòng tôi nao nao
khó tả. Vùng đất sau 10 năm xa cách ấy bây giờ cũng khác hẳn. Những quả đồi
trọc trước kia, giờ đã phủ kín một màu xanh tươi mát của rừng chè, rừng trẩu,
rừng bạch đàn. Những bãi ngô non trải dài tít tắp, hút tầm mắt một màu xanh mơn
mởn. Nhà bác Thoan đây rồi! Căn nhà lá ba gian ngày xưa của bác đã được thay
bằng ngôi nhà mới xây khang trang mái ngói đỏ tươi. Tôi chần chừ một lát rồi gõ
cửa. Ra mở cửa là một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai. Tôi ngỡ mình lầm, xin lỗi
anh, rồi hỏi thăm nhà bác Thoan. Sau khi biết tôi là người quen của bác Thoan, anh
mời tôi vào nhà tiếp chuyện thân mật.
Tôi ở làng bên cạnh mới mua nhà của bác Thoan. Bác Thoan bị bệnh mất cách đây 4
năm. Cô con gái của bác hiện nay là cán bộ công tác ở một huyện miền Trung.
Nghe nói, cô ấy yêu một anh bộ đội đóng quân nơi này, chờ suốt bảy tám năm trời
và đã bặt tin tức sáu bảy năm nay. Gần đây, cô ấy quyết định nhận lời lấy một
anh cán bộ cùng cơ quan, quê cũng ở đó. Vừa rồi cô ấy cùng chồng về đây chơi,
thăm mộ bà cụ…
Trước khi ra xe quay trở về Hà Nội, tôi hỏi thăm và tìm được mộ bác Thoan. Thắp
mấy nén hương lên mộ bác, tôi lầm rầm nói nhỏ: “Bác ơi! Hôm nay con về đây thăm
bác. Con có lỗi, bác tha lỗi cho con. Ở nơi suối vàng, bác hãy phù hộ cho em
Ngần suốt đời hạnh phúc, phù hộ cho con may mắn. Con đi đây…”.
Khói hương nghi ngút cay xè nơi khóe mắt, cổ nghèn nghẹn nhưng sao tôi thấy
lòng mình thanh thản, bình yên. Kỷ niệm về một mùa xuân năm ấy bỗng chốc ập về…
Đến bây giờ đã biết bao mùa xuân đi qua trong cuộc đời tôi, và cứ mỗi khi mùa xuân
đến, trong sắc hương ngây ngất của đất trời, mọi người nô nức đi chơi xuân, tấp
nập đổ về những danh lam thắng cảnh, thì tôi lại lặng lẽ một mình hành hương về
nơi ấy… Nơi ấy, một vùng quê nghèo nhưng có những con người mộc mạc, chân thật,
giàu tình nghĩa. Nơi ấy, tôi đã trao nụ hôn đầu đời cho một người con gái tôi
yêu. Nơi ấy, tôi còn một lời hứa chưa thực hiện. Nơi ấy, tôi đã có một mùa xuân
ấm áp với ngọt ngào kỷ niệm của những ngày đầu bỡ ngỡ bước vào đời.
Làm sao tôi có thể quên tất cả những kỷ niệm đó. Những kỷ niệm mà không phải
bất cứ ai trong cuộc đời cũng dễ dàng có được./.
Xuân Canh Thìn 1999
ĐÀO QUỐC THỊNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét