Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

KÝ SỰ: Những năm tháng không quên





               NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG QUÊN

Đầu tháng 4 năm 1975, chiến trường miền Nam bước vào giai đoạn quyết liệt. Tin chiến thắng từ khắp nơi liên tục báo về. Hà nội ngày ấy như sôi lên cùng với những bước chân rầm rập của đại đoàn quân ta từ khắp nơi tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Vào thời khắc lịch sử ấy, chúng tôi, những người lính công binh làm nhiệm vụ phá gỡ bom mìn thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 93, Bộ tư lệnh Công binh đang đóng quân ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây luôn trong tư thế thấp thỏm chờ đợi, sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ.
Tôi là chiến sĩ tân binh quê Hà Nội, vừa qua một khóa huấn luyện kỹ thuật rà phá bom mìn nên càng hiểu rõ nhiệm vụ của người lính lúc đó: Có lệnh là đi, nơi nào cần là đến. Nhiệm vụ của những người lính công binh đã thành khẩu hiệu “công binh đi trước, về sau”. Trước mỗi trận đánh, lính “bom mìn” bao giờ cũng là những chiến sĩ tiên phong đi trước mở đường cho các đơn vị đánh chiếm mục tiêu và ở lại sau cùng khắc phục hậu quả…
Ngày 28/4/1975, chúng tôi nhận lệnh lên đường. Mỗi người được trang bị  lương khô, súng AK, ba lô “con cóc”, xẻng công binh, bình tông nước, bát sắt, thắt lưng, dao găm, thuốn dò mìn, máy dò mìn… khá lỉnh kỉnh so với lính bộ binh.
Để đảm bảo giữ bí mật quân sự, không ai được biết trước địa điểm tập kết ở đâu, nhưng trong suy nghĩ của mọi người, ai cũng hiểu rằng chúng tôi đang được tăng cường cho mặt trận phía Nam. Xe chạy suốt đêm, ngày dừng nghỉ tại các trạm giao liên. Đến trưa ngày 30/4/1975 khi vừa đến thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị thì nhận được tin bộ đội ta đã giải phóng Sài Gòn, Tổng thống Ngụy Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Anh em đơn vị ôm nhau nhảy cẫng lên trong niềm vui không thể diễn tả nổi. Vậy là chúng tôi không được vinh dự có mặt ở Sài Gòn trong ngày vui chiến thắng bởi mệnh lệnh cấp trên giao phải ở lại Quảng Trị làm nhiệm vụ.
Chiến tranh kết thúc, cả nước đã im tiếng súng. Những chiến sĩ từ các mặt trận phía Nam lần lượt nghỉ phép về quê thăm gia đình. Còn chúng tôi lúc này đây lại bắt đầu bước vào một trận chiến mới – Một trận chiến thầm lặng không kém phần nguy hiểm, ác liệt.
Sau một tuần nghỉ ở thị xã Đông Hà, tiểu đội tôi nhận lệnh lên đường đi huyện Triệu Phong, rồi quay ra Dốc Miếu (Cồn Tiên), một căn cứ quân sự  cũ của địch thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Ngày đầu xuất quân, Thiếu úy Phạm Văn Thắng (quê Thanh Hóa), Chính trị viên đại đội 3 trực tiếp dẫn chúng tôi vào bãi mìn và căn dặn: “Các đồng chí hãy bình tĩnh, tự tin và tập trung cao độ… Nên nhớ, nghề của chúng ta không có cơ hội để rút kinh nghiệm”.
Chúng tôi lặng lẽ về vị trí, mỗi người cách nhau 50m trong khoảng cách an toàn nhằm giảm thiểu rủi ro. Trong cái nắng khô khốc của miền Trung, mồ hôi nhỏ giọt trên áo từng người. Tiến về phía hàng rào dây kẽm gai bùng nhùng của bãi mìn, tôi dùng kìm cộng lực cắt đứt một đoạn, rồi xử lý tiếp lớp hàng rào kẽm gai thứ 2, cắm cờ đuôi nheo phân ranh giới, rồi ấn từng nhát thuốn thận trọng xuống mặt đất với góc nghiêng 45o, mũi nọ cách mũi kia 3cm một cách bài bản. Chưa đầy 15 phút sau, tôi giật mình khi nghe tiếng “kịch”, nhát thuốn chựng lại vì gặp phải vật cản. Tôi tiếp tục thuốn xung quanh để kiểm tra và căng mắt quan sát, bỗng tôi phát hiện ngay trước mũi thuốn là 3 chiếc râu tôm mìn M14A2 nằm ẩn nấp sau bụi cỏ. Sống lưng tôi bỗng thấy lành lạnh, tay chân nổi da gà vì sợ. Cảm giác của một anh lính tân binh 18 tuổi, lần đầu tiên tiếp xúc với “thần chết” như tôi lúc đó thật khó diễn tả. Ngồi trấn tĩnh một lúc, tôi lấy chốt an toàn ra cài và tháo đầu nổ, rồi tiến hành đào đất đưa quả mìn 3 râu tôm về nơi quy định. Đây là loại mìn nguy hiểm bởi khi nổ chúng nhảy lên khỏi mặt đất ở độ cao 0,5-1m, với bán kính sát thương 150m, có khả năng tiêu diệt một trung đội 30 người.
Ngày đầu là vậy, nhưng chỉ sau 1 tháng làm quen với bãi mìn, chúng tôi đã trở thành những người lính “thiện chiến”. Cảm giác sợ hãi không còn, thay vào đó là những nhát thuốn chủ động tìm mìn vì chúng tôi đã tìm ra quy luật bố trí mìn của địch. Trong suốt mấy tháng làm nhiệm vụ ở đây, tiểu đội tôi đã rà phá hàng ngìn trái bom mìn các loại. Bình quân mỗi người tháo gỡ thu gom từ 30-50 trái bom mìn, vật cản/ một ngày và không ai xảy ra thương vong.
Ở những thời khắc gian nan, khi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, thì người ta thường tin vào sự may rủi. Hồi còn ở  huyện Triệu Phong, một lần, binh nhất Hoàng Mạnh Cường (cùng tiểu đội) phát hiện được một quả đạn pháo bi có vành sơn đỏ trông rất lạ mắt. Không nghĩ rằng đây là một quả đạn pháo đã được bắn ra khỏi nòng nhưng không nổ, Cường ném về phía tôi và anh Bùi Quang Trung (chúng tôi vẫn thường gọi là Trung “già”) đang ngồi nghỉ giải lao gần đó để hỏi xem đó là gì. Bất ngờ quả đạn nổ một tiếng chói tai, khói mù mịt. Theo phản xạ, tôi lao vào một bụi cỏ gianh gần đó nằm úp mặt xuống đất. Khói tan…tôi nghe rõ tiếng anh Thắng (chính trị viên đại đội) từ xa nói trong thảng thốt: “chết rồi…chắc là chết rồi…đồng chí nào vậy?.. y tá đâu…cứu thương…”. Tôi nằm im, lấy tay sờ khắp người xem có bị thương chỗ nào không. Tay chân thân thể vẫn còn nguyên vẹn, chỉ bị mấy vết cỏ xước cứa vào tay ngứa và rát. Ngoảnh sang phía bên trái, tôi thấy anh Trung “già” đang rên rỉ, tay ôm mặt, bò trong bụi tre rậm rạp…
Kết quả, không ai bị thương vong, anh Trung “già” cũng không bị gì ngoài một vết ong đốt sưng vù mắt. Nếu hôm đó không có mô đất cao chắn trước mặt chúng tôi, không biết chuyện gì sẽ xảy ra… Tuy nhiên, điều làm chúng tôi cười chảy nước mắt trong sự cố này là không hiểu anh Trung “già” lao vào bụi tre trú ẩn bằng đường nào mà đến khi chui ra không chui được. Anh em phải lấy dao quắm phát quang bụi tre mới giúp anh Trung thoát ra ngoài. Sau sự cố này, đơn vị tôi nghỉ một ngày để kiểm điểm rút kinh nghiệm.
Những ngày tháng ở đây, chúng tôi chứng kiến hàng chục vụ nổ bom mìn rất thương tâm. Những người dân nghèo lên đây khai hoang trồng trọt, kiếm củi…vấp phải mìn chết khá nhiều. Tháng 11/1975, một hôm đang thiu thiu ngủ trưa, bỗng tôi giật mình nghe một tiếng nổ ầm. Một cột khói đen đặc bốc lên. Thiếu úy Nguyễn Đình Thông (Đại đội trưởng) thảng thốt gọi tôi và đồng chí Tâm lên bãi mìn gấp để cứu dân. Không kịp mặc áo, tôi và Tâm xách thuốn chạy lên bãi mìn và lần đầu tiên chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng, một người đàn ông nằm gục trên vũng máu, quần áo da thịt sạm đen rách nát, bụng vỡ toác. Quên cả sợ hãi, chúng tôi tức tốc dò mìn mở đường đưa xác nạn nhân ra ngoài. Bữa cơm chiều hôm đó, tôi không sao nuốt nổi và suốt đêm trằn trọc không ngủ.
Một lần khác, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng rất đau lòng. Hai chị em ruột trong một gia đình nghèo đi kiếm củi vấp phải mìn. Bé gái 15 tuổi chết tại chỗ, bé gái 12 tuổi cố giơ tay níu giữ gánh củi trong tiếng nấc tuyệt vọng của em: “Mẹ ơi, cứu con… con không muốn chết đâu”.
Theo thống kê của Trung tâm Công nghệ xử lý bom mìn, sau chiến tranh cả nước có khoảng 800 nghìn tấn bom mìn vật liệu nổ còn sót lại trong lòng đất, làm ô nhiễm hơn 20% diện tích đất đai toàn quốc. Nếu các đơn vị công binh tích cực rà phá thì cũng phải mất từ 300-400 năm mới khắc phục xong. 35 năm kể từ khi chiến tranh kết thúc (đến năm 2010) đã có hơn 100 ngàn người chết và bị thương do tai nạn bom mìn. Trong số đó có 38.849 người chết, 65.752 người bị thương, và chỉ trong 2 năm (1975 – 1977), trong khi rà phát bom mìn, đã có gần 1.000 chiến sĩ hy sinh và hơn 1.000 chiến sĩ khác bị thương. Con số ấn tượng ấy đã thực sự làm tôi suy ngẫm. Mỗi lần ngoảnh nhìn lại quá khứ, tôi lại thấy rùng mình vì biết rằng mình đã vượt qua những cuộc chiến thầm lặng, ác liệt, nguy hiểm và may mắn toàn vẹn trở về.
Cuối năm 1975 chúng tôi rời Gio Linh sau khi hoàn thành nhiệm vụ được giao rồi di chuyển sang nhiều địa bàn khác trên đất Quảng Trị và cuối cùng chuyển về Hải Lăng, một huyện cực Nam của tỉnh Quảng Trị, cách  thị xã Đông Hà 20km về phía Bắc và cách tỉnh Thừa Thiên Huế 40km về phía Nam.
Chúng tôi hành quân về Hải Lăng bằng xe ô tô vào một buổi sáng mù sương. Hai bên đường, những gò đồi bát úp và núi thấp chi chít những hàng rào dây thép gai, những cánh đồng bị đào bới nham nhở và những hố bom trơ trụi… Dân cư ở đây phân bố thưa thớt, hầu hết là những người nghèo đi khai hoang, sống trong các nhà tạm lợp tôn nằm rải rác trên các triền đất pha cát. Cuộc sống của bộ đội lúc đó cũng vô cùng thiếu thốn không hơn gì những người dân nghèo ở đây, thế nhưng những ngày ở Hải Lăng, ai cũng cảm thấy vui và ấm áp vì được sống và sinh hoạt cùng với dân.
Tôi và anh Trung “già” được phân công ở nhà chị Mơ. Chị Mơ là y tá Bệnh viện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị, có cô cháu gái tên Đào đẹp nhất xã Hải Ba thời đó. Những buổi tối mưa dầm dề, nhóm chiến sĩ chúng tôi gồm Trương Trung Lâm, Ngô Đức Chiến, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Văn Doanh, Nguyễn Khánh Cường, Trần Cao Vân, Hoàng Mạnh Cường, Trần Văn Tâm, Trần Hiền, (Hiền toét), Tuấn “trắng”,  Trung “già”, Trung “con”…cùng quê Hà Nội, lại gần nhà nhau nên thường tụ tập đến đây đốt lửa nướng sắn, rang ngô, kể chuyện trên trời dưới đất rồi cùng nhau cười rôm rả. Chất lính hồn nhiên vô tư đã làm cho chúng tôi quên đi những căng thẳng, mệt mỏi, vất vả hàng ngày trên bãi mìn và cảm thấy yêu đời hơn.
Sau này (tháng 2/2011), tôi và Đại tá Đào Văn Sử, Trưởng đại diện Báo Quân đội phía Nam (lúc đó là Tiểu đội phó Tiểu đội 14) gặp nhau. Anh Sử tâm sự: “Cho dù sau này có biết bao sự kiện đáng nhớ đi qua cuộc đời mình, nhưng không ai có thể quên được những ký ức ngày ấy…đó là những năm tháng gian lao, vất vả, đổ máu, hy sinh mà vẫn hồn nhiên vui tươi trong sáng đến lạ kỳ. Có những điều khó có thể cắt nghĩa được, ngay cả những người trong cuộc cũng không sao giải thích nổi…”
Tối 30 Tết năm 1976, đơn vị tổ chức liên hoan văn nghệ hái hoa dân chủ và giao lưu với thanh niên trai gái trong làng rất vui. Không khí đón Tết cổ truyền náo nức, nhưng thật đáng tiếc, tối hôm ấy, hàng Tết, bánh mứt, kẹo và nhu yếu phẩm của anh em trong đơn vị không về kịp.  Sáng sớm mùng một Tết, anh Thắng (Chính trị viên) cùng cả đoàn 5 người mới thất thểu khiêng hàng về. Giải thích về sự chậm trễ này, tiểu đội trưởng Ngô Văn Chấn kể lại: “Cả đoàn gồm anh Thắng, anh Chấn, hai đồng chí quân nhu, tiếp phẩm và y tá Nguyễn Hồng Kỳ đi lĩnh hàng Tết tại Tỉnh đội Quảng Trị, nhưng do không bố trí được xe nên cả đoàn quyết định đi bộ về đơn vị. Đường xa, trời tối, nên các anh đi tắt để về đơn vị kịp đón giao thừa, không ngờ lạc vào bãi mìn. Khi rời đường lộ khoảng 500m bỗng anh Thắng hô: “Đứng im. Không ai được di chuyển. Hình như chúng ta đi lạc vào bãi mìn”. Tất cả dừng lại lo lắng. Lúc đó anh Chấn ngồi xuống sờ tay kiểm tra xung quanh và hoảng hốt kêu lên: “Đúng rồi, tôi sờ thấy 3 râu tôm”. Cả đoàn đứng im, thẫn thờ, rồi hội ý chớp nhoáng. Anh Chấn được giao nhiệm vụ dò mìn, mở đường. Trời tối không có thuốn dò mìn nên anh Chấn phải dùng một đoạn dây thép kết hợp với dùng tay, dò tìm mở đường ra. Cả đoàn 5 người thành hàng một, người đi sau bước lên vết chân của người đi trước, cứ thế dò dẫm suốt đêm, tới 4h sáng, mọi người mới ra được đường lộ, về đơn vị.
Gần một năm lăn lộn trên khắp các bãi mìn, đơn vị tôi chưa hề xảy ra thương vong, nhưng đến tháng 3/1976, Tuấn “trắng” (chiến sĩ A13) người đầu tiên giẫm phải mìn hộp zíp bị cụt một chân. Tiếp đó, tháng 5/1976, trong lúc đang cắm cúi dò gỡ mìn trên bãi, tôi bỗng nghe một tiếng nổ đinh tai từ phía sau lưng. Trương Trung Lâm (chiến sĩ A13) hy sinh khi vừa tròn 19 tuổi.
Cái chết của Lâm không làm chúng tôi chùn bước. Mồ hôi của những người lính công binh vẫn lặng lẽ rơi trên từng mét đất và có cả máu của các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Chúng tôi vẫn tiếp tục tiến về phía trước, nơi có những bãi mìn dày đặc tiềm ẩn bao mối hiểm nguy và phía sau lưng, mầm sống cũng đang bật lên từ những vạt rẫy, mảnh vườn một thời hoang hóa. Cuộc sống nơi đây đang hồi sinh mãnh liệt…  
Đầu tháng 8/1976 tôi được chỉ huy thông báo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị lên đường ra Bắc.  Thời gian gấp nên chúng tôi chỉ có nửa ngày để gặp gỡ chia tay bà con trong thôn. Tôi hớn hở về nhà khoe với chị Mơ và Đào về việc mình sắp được ra Hà Nội thăm nhà. Chị Mơ cười hể hả. Đào rủ tôi ra thị xã Đông Hà chụp hình kỷ niệm. Hai đứa chúng tôi ra đến thị xã Đông Hà lúc trời gần tối. Không may cho chúng tôi hôm đó, các tiệm chụp hình đều đóng cửa. Chúng tôi đành phải quay về. Buổi tối, con đường từ Đông Hà về xã Hải Ba vắng hoe, lác đác vài người qua lại. Mưa nặng hạt, tôi và Đào phải tạm lánh vào một cái lán ven đường trú mưa. Cơn mưa cuối mùa nồng nàn mùi đất. Chúng tôi đứng sát vào nhau và lần đầu tiên tôi bắt gặp cái nhìn của Đào thật lạ. Tôi nắm chặt tay và kéo Đào lại sát vào người tôi. Hơi nóng từ cơ thể một người con gái truyền sang người tôi nóng hổi. Đào lúng túng gỡ nhẹ tay tôi, mặt đỏ nhừ,  từ từ ngước lên nhìn tôi ngượng ngập…
 Tôi cùng các chiến sĩ lên xe ô tô ra Bắc vào một ngày đầu thu tháng Tám, nắng vàng hoe. Xung quanh là bà con xóm ấp đưa tiễn. Nước mắt lẫn trong nụ cười làm chúng  tôi lúng túng bịn rịn. Tôi nắm chặt tay chị Mơ và Đào, định nói một câu gì đó rồi lại thôi…
Đoàn xe chuyển bánh, bỏ lại sau lưng những mảnh vườn cây xanh đang đâm chồi nảy lộc…như khát vọng của những người dân nơi đây về một cuộc sống no ấm, hòa bình. Bởi hơn ai hết họ đã từng nếm trải và hiểu quá rõ cái giá phải trả cho một cuộc chiến tranh.
Đến nay đã 37 năm trôi qua, cuộc sống biết bao đổi thay, nhưng tôi vẫn không sao quên được những kỷ niệm ngày ấy. Đó là quãng đời đẹp nhất, đáng nhớ nhất, bởi chúng tôi đã cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,  xây dựng và bảo vệ tổ quốc. /.
                                                      
                        
 Vũng Tàu, ngày 30/03/2012                            
 ĐÀO QUỐC THỊNH (ghi theo lời kể)












TRUYỆN KÝ

           QUÀ TẶNG


             Tôi cầm tờ quyết định nhập ngũ, với một mớ thắc mắc trong đầu: ở cương vị bố tôi, quan hệ rộng, quen biết nhiều mà không xin cho tôi ở lại, để đứa con trai độc nhất phải đi xa?
            Bố tôi là giám đốc một ty liên doanh với nước ngoài, vì thế kinh tế gia đình tôi khá hơn so với nhiều gia đình khác trong khu. Cuộc đời thật công bằng, bởi khi những đồ vật sang trọng trong nhà tôi đầy dần lên thì những buổi sum họp gia đình cũng thưa dần đi. Bố tôi đi cả ngày, tối về lại tiếp khách. Khách đến nhà tôi thường là những ông to béo, bụng phệ, đầu hói, tay xách cặp đen. Bố tôi không có hình dáng như những ông khách đó. Nhưng mỗi khi tiễn khách về, các ông khách cúi người giơ cả hai tay ra bắt tay bố tôi thì ngược lại, bố tôi vẫn đứng nghiêm như chào cờ, chìa một tay ra bắt tay khách đáp lễ.
             Một buổi đi làm về, bố tôi tươi cười thông báo: “Mai nhà ta có khách quý đến chơi”. Mẹ tôi hỏi: “Chủ doanh nghiệp nào thế?”. Bố tôi không trả lời. Biết tính bố, mẹ tôi không hỏi nữa. Hôm sau mẹ tôi dậy sớm, mua một bó hoa to rực rỡ, trang trọng bày trên bàn tiếp khách. Bàn tiệc được mẹ tôi chuẩn bị rất công phu. Quá 12h trưa, vị khách quý mới xuất hiện. Mẹ tôi tròn mắt kinh ngạc, khi thấy một ông nhà quê, đen đúa, khắc khổ gò lưng trên chiếc xe xích lô tiến vào sân nhà. Bố tôi chạy vội ra đón khách. Ông ta nhảy xuống xe ôm chầm lấy bố tôi. Chiếc xe xích lô không người giữ lặng lẽ trôi vào góc sân. Ông khách rút chiếc khăn mặt vắt vai lau mồ hôi nói:
            - Thông cảm ! Ngày chủ nhật đông khách, tao phải tranh thủ làm vài “cuốc” rồi mới về đây được.
            Bố tôi đáp lại bằng cử chỉ kéo tay ông khách, lôi vào nhà hồ hởi giới thiệu với mẹ tôi:
            - Đây là Bình, bạn chiến đấu cùng đơn vị với anh ngày xưa.
            Ông ta chỉ tay vào mẹ hỏi bố;
            - Đây có phải là Trần Minh Thu mà mày vẫn nhắc đến phải không?
            Bố tôi mỉm cười gật đầu.
            Ông ta thốt lên, nắm chặt lấy tay mẹ tôi: “Trời ơi ! Chúc mừng! Chúc mừng!”.
            Khi những ly bia được rót tràn bọt ra bàn thì cũng là lúc mẹ tôi đứng dậy nói:
            - Xin lỗi hai anh, hôm nay em có việc bận phải về bên ngoại.
            Bố tôi ngơ ngác hỏi:
             - Sao không nói với anh từ trước?
             Mẹ tôi không nói, lặng lẽ xách túi ra khỏi nhà. Bỗng ông khách chăm chú nhìn căn phòng khách sang trọng của bố tôi, rồi nói giọng đượm buồn:
            - Tôi cũng muốn ngồi lại đây với anh, nhưng cháu nhà tôi ốm, phải về thôi. Thiếu gì lúc gặp nhau. Còn sống mà nhìn thấy nhau thế này là mừng rồi.
            Những ngày sau đó nặng nề trôi. Không khí trong căn nhà tôi trở nên khó thở ngột ngạt. Liên hoan chia tay tôi lên đường nhập ngũ không diễn ra như dự định. Bố tôi rời khỏi nhà từ hôm trước, không một lời dặn lại. Khách đến đông nghịt. Mẹ tôi tươi cười chào khách giấu đi chuyện buồn trong gia đình. Khi mọi người đã ngồi vào bàn ăn đầy đủ thì nghe tiếng chó sủa. Mẹ tôi chạy ra cổng, nhìn thấy ông khách xích lô liền đứng sững lại. Ông ta rụt rè nói khẽ: “Tôi gửi tặng món quà này cho anh, chị”. Nói xong ông ta quay ngược đi thẳng, để lại chiếc ba lô cũ rích. Mẹ tôi buộc phải xách vào nhà. Tiệc tan, khi khách đã về hết, tôi và mẹ lần lượt mở từng gói quà tặng và chiếc ba lô được mở ra sau cùng. Bỗng mẹ tôi giật mình khi nhìn thấy những chồng thư đã úa vàng qua năm tháng thời gian và nét chữ của mẹ tôi thời con gái. Có cả những trang nhật ký và những lá thư của bố tôi viết dở… Ngoài mỗi phong bì ghi rõ ngày, tháng, năm và dòng chữ:“Ngày mai tao ra trận, nếu có hy sinh thì Bình ở lại hãy chuyển những lá thư này đến tay bạn gái của tao là Trần Minh Thu, địa chỉ…” Bỗng mẹ tôi lặng đi, nhìn tôi mà tôi biết mẹ chẳng nhìn gì cả, rồi lầm rầm cất tiếng: “Chiến tranh, trận mạc… ngày đó bọn anh mới vào đến Quảng Bình là đã thi nhau ngã rồi, vào đến Kontum cả tiểu đoàn nhìn nhau chỉ còn dăm chục đứa. Tan tác, tứ tán, tụt lại nằm lại gác rừng le, rừng khộp xứ Lào. Rồi dăm chục đứa ấy cũng lại rơi rụng chỉ còn lại vài đứa. Có người bị mảnh bom phạt đứt đầu rồi mà vẫn còn lao về phía trước. Có người đang cười tự nhiên ngã vật xuống như bị trúng gió độc, không nghe tiếng súng mà đạn chọc đúng tim. Bỗng nhiên có bao nhiêu người chết mà họ không đáng chết, ấy là chiến tranh …”. Đêm pháo hoa, ngày 02 tháng 09 năm1975, giữa dòng người cuồn cuộn đổ về Hồ Gươm hân hoan chào mừng chiến thắng, đi bên mẹ, bố tôi đã thì thầm kể cho mẹ nghe tất cả… Lâu quá, mẹ đã quên mất rồi… Mẹ tôi bật khóc.
            Tôi ngước nhìn tấm ảnh bố mặc quân phục treo trên tường và hình dung thấy tất cả những tháng năm gian khổ, hào hùng. Một thời trai trẻ với những mất mát, hy sinh của cả một thế hệ những người như bố. Nước mắt tôi bỗng nhiên trào ra./..
                                                                        
                                                                          Thu ơng

(Tập truyện ký nhiều tác giả: “Người chiến sĩ nhân dân-Những mẩu chuyện không quên”  - Báo Sài Gòn Giải Phóng 9/ 1997).



    



 

MỘT THOÁNG SUY TƯ

------------------------------------


Đoàn chúng tôi gồm 8 người, trừ anh cán bộ trưởng đoàn và tôi là người lớn tuổi, số còn lại đều rất trẻ. Sau 2 ngày công tác ở Bình Dương, chúng tôi phấn khởi lên đường về thành phố Hồ Chí Minh. Qua khỏi lái thiêu, trời đã tối, mưa bắt đầu rơi, chiếc xe đời mới của đoàn dừng lại một quán ăn sang trọng bên đường.
Chủ quán và người phục vụ lăng xăng mời mọc, kéo ghế. Chúng tôi quây quần vui vẻ trên một chiếc bàn tròn. Cô kế toán, thành viên của đoàn trao cho anh trưởng đoàn tờ thực đơn và nói:
-         Mời chú chọn món ăn.
Anh trưởng đoàn khoát tay, cười dễ dãi:
-         Cô cứ “đi chợ” thoải mái.
Anh phó đoàn còn rất trẻ, cất giọng rổn rang:
-         Chúng tôi sống vì nước và nước là chủ yếu.
-         Cả đoàn cùng cười. Chúng tôi đã làm việc cật lực, bây giờ có quyền thư giãn. Năm đó, cơ chế thị trường đang bắt đầu triển khai. Đơn vị chúng tôi làm ăn có hiệu quả, cho nên chi phí cho những chuyến công tác xa được mở rộng.
Món đầu tiền được chọn ra là 2 thùng bia lon. Bia không để trên ghế mà oai phong, chen chúc, chất đầy khắp mặt bàn. Tiếng nói, tiếng cười rộn rã. Hai người không uống bia thì dùng coca-cola lon. Nước bia vàng óng, sủi bọt cứ rót tràn ra cả bàn. Tô canh chua bóc khói thơm phức, đĩa thịt gà xối mỡ vàng óng, hấp dẫn.
Bỗng có tiếng xe ầm ầm và vụt tắt. Một chiếc xe quân sự không mui sừng sững dừng lại trước quán. Xe chở đầy lính, kẻ đứng người ngồi lố nhố. Một anh bộ đội mang quân hàm đại úy xuống xe chạy vội vào quán. Không biết anh trao đổi gì với ông chủ quán mà chỉ  một thoáng, anh đã quay vội ra xe. Chiếc xe không nổ máy được. Tức thì các chiến sĩ trên xe xuống “Nào đẩy!” Cả anh sĩ quan cũng góp sức. Tiếng máy nổ ù ù. Các chiến sĩ lại  nhanh chóng leo lên xe. Những tấm bạt phong phanh che lên. Mưa nặng hạt từ bao giờ.
Khi xe lăn bánh, tôi chợt nghe ông chủ quán nói một mình: “Bây giờ mà đòi cơm đĩa 3 ngàn đồng”.
Tôi buông đũa, bỗng nghe nhói trong lòng. Tôi nhìn vào những lon bia trên mặt bàn và chợt nhớ câu nói của anh phó đoàn lúc nãy: “Chúng tôi sống vì nước!”. Tôi đưa mắt nhìn anh trưởng đoàn rồi lần lượt dừng lại trên khuôn mặt từng thành viên. Cô kế toán không biết vì xúc động sao đó mà hàng mi chớp chớp. Anh cán bộ trưởng đoàn cũng đã một thời là lính chiến đấu gian khổ đang cười bỗng im bặt. Chỉ có anh phó đoàn mới tốt nghiệp đại học ở Liên Xô về là hình như không chú ý. Ly bia lại cạn.
Chúng tôi được xã hội phân công làm kinh tế. Chiến trường chúng tôi là chiến trường gần. Nơi làm việc, nơi ăn ở phải tươi, phải mát. Còn chiến trường của những người mặc áo lính là chiến trường xa, ở tít nơi núi rừng biên giới. Cuộc sống vô cùng gian khổ, thiếu thốn. Chỗ ăn, chỗ làm việc cũng dã chiến…
Đã hơn 10 năm trôi qua, hình ảnh buổi tối hôm ấy như ẩn, như hiện ở trong tôi. Một thoáng gặp gỡ những người lính không quen mà sao nặng trĩu suy tư. Kỷ niệm về những năm tháng sống trong quân ngũ của tôi lại ập về. Dù bây giờ tôi và các anh-những người chiến sĩ ấy mỗi người một cương vị khác nhau, dù chưa một lần quen biết nhưng gặp các anh sao tôi vẫn thấy gần gũi, thân thương như đã quen tự bao giờ.


         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét