TRUYỆN NGẮN VIẾT CHO THIẾU NHI
NHẶT CỦA RƠI
Thằng Hòa em trai tôi đi học về hùng hồn
tuyên bố:
- Mai em sẽ kiện cô giáo!
- Sao kiện? Chuyện gì thế?
Tôi hỏi nó.
- Bài tập làm văn em viết hay thế mà cô bắt em viết lại!
- Đâu? Đưa chị coi?
Nó rút trong cặp bài tập làm văn ra đưa cho
tôi. Mới đọc lướt qua một đoạn tôi đã muốn ngất xỉu. Viết thế này, chẳng trách cô bắt
làm lại:
“Đề bài: Em hãy thuật
lại một việc tốt của em (hoặc của bạn em).
Bài làm: Một buổi sáng
mùa hè lung linh huyền ảo. Em tung tăng cắp sách đến trường từ sáng sớm tinh
mơ. Bỗng em reo lên: Đây rồi! Một cái túi rất to nằm ngay giữa sân trường. Em
vội vàng chạy lại mở túi ra xem thì thấy toàn là vàng, đô la… Em xách túi chạy
đến đồn công an…”.
- Đúng là giàu trí tưởng
bở. Cứ làm như cái túi nó nằm chờ mày ở sân trường ấy. Mà ở trường chỉ có cô
giáo và học sinh, lấy đâu vàng và đô la để mà đánh rơi? Viết thế này còn định
kiện cáo gì nữa?
Thằng Hòa ngẩn người. Nó
chạy sang nhà hàng xóm chơi. Chắc nó đã nhận ra sai lầm của nó. Đó là chuyện
của ngày hôm qua.
Sáng nay mồng một âm lịch.
Mẹ dặn tôi phải thổi xôi, thắp hương từ sớm để thằng Hòa đi học về kịp ăn. Thế
mà không hiểu sao gần 12 giờ trưa rồi vẫn không thấy nó về. Tôi quyết định lao
đến trường. Đang trong tâm trạng lo âu, sốt ruột, tôi bắt gặp cu cậu đang điềm
nhiên đứng ăn kem trước cổng trường. Bực mình, không nói câu nào, tôi lặng lẽ
lôi cổ nó về nhà.
- Mày lấy tiền đâu ra mà
ăn kem?
- Ông bà ấy cho em – Nó
trả lời tỉnh khô.
- Ông bà nào? Tại sao
người ta lại cho mày tiền? Nói mau!
- Sáng sớm nay đi học,
em thấy một ông vác một bao tải rách cùng với một bà đội thúng từ trong ngõ đi
ra. Ông ta rất vội nên đánh rơi bọc tiền đựng trong túi ni lông rớt xuống đất
mà không hề hay biết.
- Bọc hình gì? To bằng
ngần nào? Mày nhìn thấy tiền trong đó à? - Tôi cắt ngang.
- Hình vuông, to bằng
cái đầu chị ấy…
Em không nhìn thấy tiền
nhưng nặng lắm. Em vội nhặt lấy, chạy theo đưa cho ông bà ấy. Ông ấy khen em
ngoan rồi nhét vào túi em 2.000 đồng.
- Sao mày biết là túi
tiền?
- Vì bà kia bảo với ông
ấy: “May quá, cháu nó nhặt được gói tiền vàng của ông kìa”.
Trong óc tôi chợt nghĩ:
Mấy hôm nay đài báo liên tục đưa tin về các vụ trộm cắp xảy ra ở địa bàn Hà
Nội. Một số vụ là những người bỏ quê lên Hà Nội, đi lao động, mua ve chai và
nhặt rác ban đêm.
- Mày tả hình dáng ông
bà kia tao xem? Ông ta thấp, đội mũ cối, mặc quần áo bộ đội cũ, đi dép lê, mặt
có một vết sẹo dài. Còn bà kia thì mặc một chiếc áo đen, đội nón rách, da vàng.
- Thôi đích thị là kẻ
gian rồi. Sao mày ngu thế! Không lẳng lặng ôm gói tiền ấy chạy đến đồn công an
báo, may ra còn kịp vây bắt.
- Nhỡ không phải là kẻ
cắp thì sao? – Nó vặn lại.
- Còn nhỡ gì nữa? Đội mũ
cối, mặc quần áo bộ đội, đi dép lê, chỉ có bọn “đầu gấu”, không ăn trộm thì
việc gì phải vội vội vàng vàng như thế. Mày không thấy sao? Đi nhặt rác thì
kiếm đâu ra một túi tiền vàng to như thế? Vụ trộm này lớn đấy.
Mặt thằng Hòa đần ra. Nó
ân hận vì đã trót cầm tiền của một kẻ ăn cắp. Nó tiếc vì đã bỏ qua một cơ hội
lập chiến công.
Bỗng trong đầu tôi lóe
lên một ý nghĩ:
- Mày có nhớ hai tên đó
đi về hướng nào không?
- Đi về phía chợ?
Quên cả ăn trưa, chỉ lo
hai tên trộm tẩu thoát, cứ thế tôi lôi thằng Hòa đi về phía chợ với một chút hy
vọng mỏng manh, may ra bọn chúng chưa bỏ đi xa. Vừa đi tôi vừa vạch cho thằng
Hòa phương án bắt trộm.
- Khi nào phát hiện
thấy, mày sẽ bám theo, còn tao đi báo công an, nghe chưa?
- Chị ơi, em sợ lắm! Tay nó túm chặt tay áo tôi.
- Sợ thì mày đi báo công
an, tao bám theo vậy.
- Hai chị em tôi lách
qua đám đông ở chợ, để tiến về khu nhà lá của dân nhặt rác mà người ta quen gọi
là khu nhà ổ chuột. Đến cuối chợ bỗng thằng Hòa reo lên:
- Đây rồi chị ạ!
Tiếng reo của nó làm tôi
run bắn người. Ông bà kia cũng phát hiện thấy nó. Thằng Hòa lùi lại định chạy
nhưng không kịp. Ông kia mừng rỡ lao vào ôm chầm lấy nó cười tít. Tôi nhìn dưới
chân ông bà kia: chiếc thúng và bao tải rách vẫn còn nguyên. Trên thúng là
chiếc mẹt bày hương, hoa, tiền vàng mã… có lẽ ông ta đang xếp dở những tập tiền
vàng âm phủ cho vào bao tải rách để dọn hàng về./.
Tháng 9/1996
ĐÀO THU HƯƠNG
MỘT BUỔI THI
- Hai
mươi sáu: Trần Hồng Linh.
Tiếng cô
giáo đọc số báo danh vào phòng thi vang lên dõng dạc. Từ trong đám thí sinh còn
đứng lố nhố ở ngoài, một cô bé có khuôn mặt trắng trẻo, dong dỏng cao, tóc cắt
ngắn, lách người ra khỏi đám đông bước vào phòng thi. Cô giám thị phòng thi số
7 kiểm tra kỹ thẻ dự thi của Linh xong mừng rỡ hỏi:
- Em là
con mẹ Liên phải không?
- Dạ
phải, sao cô biết?
- Cô vừa
gặp mẹ em ở cổng trường, cô tên là Hồng, coi thi ở phòng này và là học sinh cũ
của mẹ em…
Hai mươi
bảy…
Linh vội
vã chào cô Hồng, rồi đi về vị trí của mình.
Điểm
danh xong, thí sinh vào lớp. Sân trường lúc nãy đầy người bây giờ vắng lặng,
khoảng đất dưới gốc cây phượng ngoài sân lốm đốm những cánh hoa đỏ ối rơi đầy,
nhìn xa tưởng như có ai rắc một mớ than hồng lên mặt đất. Giây phút chờ đợi
phát đề thi im ắng nặng nề trôi. Đâu đó tiếng kéo xệch một cái bàn trên nền
gạch hoa nghe rin rít rợn người.
Thùng!... Thùng!...
Thùng!...
Tiếng trống trường báo hiệu
giờ thi bắt đầu. Cô Hồng cầm đề thi lần lượt đi phát cho các bàn rồi chậm rãi
đọc lại một lượt cho các thí sinh soát lại. Những cái đầu cúi gầm xuống mặt
bàn, tiếng thở phào nhẹ nhõm xen lẫn tiếng chặc lưỡi đầy vẻ lo âu… Phòng thi
bỗng chốc xôn xao hẳn lên rồi trở lại cái không khí im ắng ban đầu của nó. Cô
Hồng quan sát Linh khá lâu, bất giác cô nhớ lại thời học sinh của mình…
Ngày ấy, bỗng nhiên bố bị
lâm bệnh rồi qua đời. Một mình mẹ tần tảo nuôi ba chị em Hồng mà vẫn không đủ
ăn. Mới mười sáu tuổi, Hồng đã phải nghỉ học để phụ giúp mẹ kiếm tiền nuôi các
em. Biết hoàn cảnh đó, cô Liên chủ nhiệm lớp đã đến nhà động viên Hồng đi học
và vận động cả lớp hàng tháng quyên góp tiền giúp đỡ mẹ Hồng. Nếu không có cô
Liên hồi đó, chắc chắn Hồng sẽ không có ngày hôm nay. Thấm thoắt thế mà đã hơn
10 năm trôi qua, kể từ khi cô Liên chuyển đi trường khác, Hồng không còn điều
kiện để gặp cô nữa. Và hôm nay, không ngờ quả đất xoay tròn…
Hai tiếng đồng hồ dành cho
đề thi toán trôi qua hơn một nửa. Cô Hồng đứng ở một bên cửa ra vào nhìn khắp
một lượt phòng thi. Ánh mắt của cô đảo khắp phòng thi và dừng lại thật lâu ở
chỗ Linh. Linh đang nhíu mày suy nghĩ, mồ hôi lấm tấm trên trán. Bất chợt Linh
ngước nhìn và bắt gặp ánh mắt cô Hồng, Linh cúi xuống bối rối. Thấy vậy, cô
Hồng đi lại chỗ Linh ngồi và nhìn vào tờ giấy nháp đầy những hình vẽ chằng chịt
của Linh. Cô hiểu bài làm của Linh đang bị vướng ở con toán hình cuối cùng.
Cô Hồng đi về phía bục
giảng, lấy phấn vẽ lên bàn để giải bài toán và chẳng khó khăn gì cô đã tìm ra
cách giải. Cô Hồng đi xuống chỗ Linh ngồi và chỉ tay vào hình vẽ trên giấy
nháp của Linh.
- Định lý…
Cô Hồng dừng lại đột ngột
khi thấy ánh mắt của Linh không nhìn theo ngón tay cô chỉ mà đang ngước lên
chăm chú nhìn cô. Giọng Linh nhỏ nhẹ:
- Thưa cô, các bạn ấy biết
đấy!
- Không sao đâu em – Cô
Hồng bối rối.
Bỗng giọng Linh trở nên
cương quyết:
- Không! Cô để tự em làm…
Mẹ em là cô giáo, em không thể để các bạn ấy coi thường mẹ em, coi thường em.
Mỗi người phải tự tìm lời giải cho mình.
- Xin lỗi em!
Mặt cô Hồng ửng đỏ, cô rút
vội bàn tay lên như chạm phải lửa và quay trở về bàn giáo viên như một người
đang trốn chạy. Linh ngước nhìn theo cô, rồi lại cắm cúi làm bài tiếp…
Chỉ còn hơn mười phút nữa
là hết giờ thi. Thí sinh đã nộp bài khá đông. Phòng thi trở nên rộng thênh
thang khi chỉ còn khoảng mười người ngồi rải rác. Cô Hồng cảm thấy sốt ruột vì
không biết Linh đã làm được chưa. Cô nhìn Linh với ánh mắt lo âu lẫn cảm phục.
Nhưng kìa! Linh đã đứng dậy đem bài lên nộp. Cô Hồng hồi hộp cầm lấy bài làm
của Linh lên xem. Cách giải của Linh không được ngắn gọn nhưng vẫn đi đến một
kết quả đúng.
Đợi cô Hồng xem xong, Linh
mới lí nhí nói vài lời cám ơn cô Hồng rồi chào cô ra về. Cô Hồng tiễn Linh ra
cửa xúc động nắm chặt tay Linh nói:
- Nhờ có em hôm nay mà cô
đã không tự đánh mất chính mình. Buổi thi này, chính em đã giúp cô trở về cương
vị của một giáo viên đích thực. Cám ơn em nhiều.
Tiếng trống trường rung lên
nói lời chia tay giữa Linh và cô Hồng. Cô nhìn theo cho đến khi bóng Linh nhòa
vào trong nắng./.
Ngày 01/09/1997
ĐÀO THU HƯƠNG
ĐI CÂU
Nghỉ hè, nó được về quê chơi ít hôm.
Thấy hai thằng cạnh nhà cũng bằng tuổi nó đi câu cá, nó xin đi theo. Biết nó là
con gái thành phố, chưa quen câu cá, một thằng tuyên bố:
-
Ai câu được thì hưởng, không chung đâu nhé!
Nó bằng lòng. Nghĩ đến đi câu cá,
được giải trí là thích rồi. Ngoài chợ bán đầy cá, nhà nó thiếu gì tiền mà không
mua được cá về ăn.
Gần một tiếng đồng hồ trôi qua, nó
mỏi mắt chăm chú theo dõi chiếc phao câu mà không thấy động tĩnh gì. Bờ bên
kia, thằng bạn nó ngửa người ra sau giật mạnh, chiếc cần câu uốn cong, nổi lên
mặt nước là một con rắn.
Cậu ta bình tĩnh thò tay bóp chặt đầu con rắn
cho nó há miệng, tháo lưỡi câu ra rồi vứt vào ruộng lúa gần đấy.
Từ lúc nhìn thấy con rắn, người nó run bắn. Nó
định nhấc cần câu bỏ về thì chiếc phao nhấp nháy rồi thụt xuống nước mất tăm.
Thằng bạn kêu lên giục nó “giật đi”. Nó run run cầm cần câu nhấc lên từ từ
trong tư thế sẵn sàng bỏ chạy. Khi nhìn thấy chú cá trắng óng ánh mấp mé mặt
nước, nó mới dám giật mạnh. Con cá tuột khỏi lưỡi câu, bắn lên bờ, quẫy đành
đạch. Nó mừng rỡ vồ lấy chú cá, giữ chặt giơ lên ngắm nghía thích thú. Nó nói
một mình: “Khổ thân mày chưa! Nếu mày cũng đáng sợ như con rắn kia thì hôm nay
mày được thoát rồi vì nhất định tao sẽ bỏ chạy”. Con cá như hiểu lời nói, khóc
đỏ hoe mắt.
Nó ngần ngừ rồi vứt vội con cá xuống
mương. Con cá quẫy đuôi chào nó rồi lặn mất tăm. Nó cầm cần câu đứng dây đi về.
Thằng bạn tròn xoe mắt ngạc nhiên hỏi:
- Định về à? Sao lại thả ? Tiếc thế!
- Tớ nhìn thấy nó khóc, mắt đỏ hoe.
Hai thằng bịt miệng cười khúc khích: “Ngốc
thế! Cá chầy, con nào mà mắt chẳng đỏ”./.
(Hoa học trò, số
140 ra ngày 15 /08/1996)
NHẶT CỦA RƠI
Thằng Hòa em trai tôi đi học về hùng
hồn tuyên bố:
- Mai em sẽ kiện cô giáo!
- Sao kiện? Chuyện gì thế ?
Tôi hỏi nó.
- Bài tập làm văn em viết hay thế mà
cô bắt em viết lại!
- Đâu? Đưa chị coi?
Nó rút trong cặp bài tập làm văn ra
đưa cho tôi. Mới đọc lướt qua tôi đã muốn ngất xỉu. Viết thế này, chẳng trách
cô bắt làm lại:
“Đề bài: em hãy thuật lại một việc
tốt của em (hoặc của bạn em).
Bài làm: Một buổi sáng mùa hè lung
linh huyền ảo. Em tung tăng cắp sách đến trường từ sáng sớm tinh mơ. Bỗng em
reo lên: Đây rồi! Một cái túi rất to nằm ngay giữa sân trường. Em vội vàng chạy
lại mở túi ra xem thì thấy toàn là vàng, đô la… Em xách túi chạy đến đồn công
an…..”.
- Đúng là giàu trí tưởng bở. Cứ làm
như cái túi nó nằm chờ mày ở sân trường ấy. Mà ở trường chỉ có cô giáo và học
sinh, lấy đâu vàng và đô la để mà đánh rơi? Viết thế này còn định kiện cáo gì
nữa?
Thằng Hòa ngẩn người. Nó chạy sang
nhà hàng xóm chơi. Chắc nó đã nhận ra sai lầm của nó. Đó là chuyện của ngày hôm
qua.
Sáng nay mồng một âm lịch. Mẹ dặn
tôi phải thổi xôi, thắp hương từ sớm để thằng Hòa đi học về kịp ăn. Thế mà
không hiểu sao gần 12 giờ trưa rồi vẫn không thấy nó về. Tôi quyết định lao đến
trường. Đang trong tâm trạng lo âu, sốt ruột, tôi bắt gặp cu cậu đang điềm
nhiên đứng ăn kem trước cổng trường. Bực mình, không nói câu nào, tôi lặng lẽ
lôi cổ nó về nhà.
- Mày lấy tiền đâu ra mà ăn kem?
- Ông bà ấy cho em- Nó trả lời tỉnh
khô.
- Ông bà nào? Tại sao người ta lại
cho mày tiền ? Nói mau!
- Sáng sớm nay đi học, em thấy một
ông vác một bao tải rách cùng với một bà đội thúng từ trong ngõ đi ra. Ông ta
rất vội nên đánh rơi bọc tiền đựng trong túi ni lông rớt xuống đất mà không hề
hay biết.
- Bọc hình gì? To bằng ngần nào? Mày
nhìn thấy tiền trong đó à? Tôi cắt ngang.
- Hình vuông, to bằng cái đầu chị
ấy….
Em không nhìn thấy tiền nhưng nặng lắm. Em vội nhặt lấy, chạy theo đưa
cho ông bà ấy. Ông ấy khen em ngoan rồi nhét vào túi em 2.000đ.
- Sao mày biết là túi tiền?
- Vì bà kia bảo với ông ấy: “May
quá, cháu nó nhặt được gói tiền vàng của ông kìa”.
Trong óc tôi chợt nghĩ: Mấy hôm nay
đài báo liên tục đưa tin về các vụ trộm cắp xảy ra ở địa bàn Hà Nội. Một số vụ
là những người bỏ quê lên Hà Nội, đi lao động, mua ve chai và nhặt rác ban đêm.
- Mày tả hình dáng ông bà kia tao
xem? Ông ta thấp, đội mũ cối, mặc quần áo bộ đội cũ, đi dép lê, mặt có một vết
sẹo dài. Còn bà kia thì mặc một chiếc áo đen,đội nón rách, da vàng.
-Thôi đích thị là kẻ gian rồi. Sao mày ngu
thế! Không lẳng lặng ôm gói tiền ấy chạy đến đồn công an báo, may ra còn kịp
vây bắt.
-Nhỡ không phải là kẻ cắp thì sao?- nó vặn lại.
- Còn nhỡ gì nữa? Đội mũ cối, mặc
quần áo bộ đội, đi dép lê, chỉ có bọn ‘’đầu gấu”, không ăn trộm thì việc gì
phải vội vội vàng vàng như thế. Mày không thấy sao? Đi nhặt rác thì kiếm đâu ra
một túi tiền vàng to như thế? Vụ trộm này lớn đấy.
Mặt Thằng Hòa đần ra. Nó ân hận vì đã chót cầm
tiền của một kẻ ăn cắp. Nó tiếc vì đã bỏ qua một cơ hội lập chiến công.
Bỗng trong đầu tôi lóe lên một ý
nghĩ:
- Mày có nhớ hai tên đó đi về hướng nào không?
- Đi về phía chợ?
Quên cả ăn trưa, chỉ lo hai tên trộm
tẩu thoát, cứ thế tôi lôi thằng Hòa đi về phía chợ với một chút hy vọng mỏng
manh, may ra bọn chúng chưa bỏ đi xa. Vừa đi tôi vừa vạch cho thằng Hòa phương
án bắt trộm.
- Khi nào phát hiện thấy, mày sẽ bám theo, còn
tao chạy đi báo công an, nghe chưa?
-Chị
ơi em sợ lắm! Tay nó túm chặt tay áo tôi.
-
Sợ thì mày đi báo công an tao bám theo vậy.
- Hai chị em tôi lách qua đám đông ở
chợ, để tiến về khu nhà lá của dân nhặt rác mà người ta quen gọi là khu nhà ổ
chuột. Đến cuối chợ bỗng thằng Hòa reo
lên:
- Đây rồi chị ạ!
Tiếng reo của nó làm tôi run bắn
người. Ông bà kia cũng phát hiện thấy nó. Thằng Hòa lùi lại định chạy nhưng
không kịp. Ông kia mừng rỡ lao vào ôm chầm lấy nó cười tít. Tôi nhìn dưới chân
ông bà kia: chiếc thúng và bao tải rách vẫn còn nguyên. Trên thúng là chiếc mẹt
bày hương, hoa, tiền vàng mã… có lẽ ông ta đang xếp dở những tập tiền vàng âm
phủ cho vào bao tải rách để dọn hàng về./.
(
Báo Giáo Dục Sáng Tạo Tp. HCM, số ra tháng 9/1996)
ÔNG TÔI
Nhà ông tôi to và đẹp nhất nhì ở
thành phố. Ông tôi là tiến sĩ, hiện là giám đốc một nhà máy lớn.
Một buổi sáng mùa đông lạnh buốt,
mưa phủ kín từng nóc nhà. Tôi trùm chăn bông ngồi xem ti vi ở nhà ông, chợt có
tiếng ngõ cửa. Tôi vội chạy ra mở cửa, trước mắt tôi: Một cậu bé ăn mày.
Chiếc áo mỏng sờn rách, ướt sũng
nước mưa, dính chặt vào tấm thân gầy gò của cậu bé. Tay run run, cậu bé chìa
chiếc nón rách trước mặt tôi:
- Cho cháu xin bát cơm.
Tôi chăm chú nhìn cậu bé, lưỡng lự
rồi nói:
- Nhà không có gì đâu, đi đi!
Cánh cửa vừa được khép lại thì cũng
là lúc ông tôi từ nhà dưới đi lên. Ông gọi cậu bé ăn mày vào nhà, cởi quần áo
rồi lau khô người cho cậu ta. Ông lấy bộ quần áo cũ, nhưng vẫn còn lành lặn của
ông đưa cho cậu bé ăn mày mặc. Chiếc bánh mì, phần ăn sáng của ông cũng được
nhường cho cậu bé. Ông nói:
- Cháu ăn đi, và đợi khi nào tạnh
mưa hãy đi.
Cậu bé khép nép trong bộ quần áo
rộng thùng thình nhìn ông tôi với ánh mắt biết ơn và ngồi ăn một cách ngon
lành.
Mưa đã tạnh hẳn, cậu bé chào ông tôi
rồi lầm lũi đi tiếp. Như sực nhớ ra, ông vội lấy chiếc áo mưa chạy theo đưa nốt
cho cậu bé. Khi bóng cậu bé ăn mày đã khuất hẳn, tôi gắt lên với ông:
- Ông cho nó áo mưa thì mai lấy gì
mà đi làm?
- Mai ông sẽ mua cái khác cháu ạ!
Ông cười hiền lành, trả lời.
- Nhưng nhà mình đã phải giàu có gì
đâu mà ông cho nó nhiều thế!
Khuôn mặt ông tôi bỗng buồn hẳn
xuống, giọng trầm trầm ông nói với tôi:
- Một miếng khi đói bằng một gói khi
no. Cháu còn bé nên chưa biết đấy thôi. Ông mồ côi cả bố lẫn mẹ từ khi còn nhỏ
và cũng phải đi xin ăn như cậu bé này….
Ông may mắn hơn vì được hai cụ không
có con nhận ông làm con nuôi, cho ăn học tử tế nên bây giờ mới được như thế này
đấy cháu ạ! Cái nhà này chính là nhà của hai cụ để lại cho ông đấy!
Tôi nhìn ra cửa, nơi cậu bé ăn mày
đứng, tay run run chìa chiếc nón rách xin ăn và tưởng tượng ra cảnh ông tôi
ngày bé. Nước mắt tôi bỗng nhiên trào ra….
(Báo
Bà Rịa - Vũng Tàu, số 1519, ra ngày 22/08/1997)
QUÊ HƯƠNG
Cả lớp lặng im, những con mắt đổ dồn về phía tôi khi nghe tôi đọc xong
bài văn tả phong cảnh quê hương được cô cho điểm cao nhất lớp hôm nay. Cô giáo
đi lại gần, hỏi tôi thoáng một chút nghi ngờ:
- Là một học sinh thành phố, làm thế nào mà em có thể viết được một bài
văn tả quê hương sâu sắc, chân thật và gần gũi đến như vậy?!
- Thưa cô… bà em… giúp em ạ!
- Sao? Em vừa nói gì? Bà em viết hộ em à?
- Thưa cô, không ạ!... vâng, đúng ạ!
Tôi nhìn ra hàng phượng vĩ trước sân trường và chợt nhớ đến mùa hè năm
ấy…
Tháng 5, bố đưa tôi về quê nội. Quê nội tôi, một xóm nghèo bên kia sông
Hồng. Biết bao lần, tôi đã mơ ước được về thăm quê, thăm bà, thế nhưng mới bước
chân lên con đường làng lầy lội, lớp nhớp bùn sau cơn mưa, nhìn những mái nhà
tranh thấp tè ẩm ướt sau luỹ tre làng, tôi đã bắt đầu thất vọng. Tôi không dám
cằn nhằn nhưng ấm ức nghĩ thầm: "Sao mà bẩn thế! Biết thế này, mình chẳng
đòi bố cho về nữa".
Bố tôi tươi cười chào người làng, có lúc lại còn đứng lại nói chuyện với
một bác gánh phân. Bữa cơm trưa hôm ấy, bà tôi tấm tắc khen ngon và gắp vào bát
tôi miếng thịt luộc. Tôi gắp ra nhăn mặt: "Mỡ thế này, cháu ăn làm sao
được!"
Bố chan cho tôi canh cua, mới ăn được một miếng tôi đã vội kêu lên:
"Canh chưa cho bột ngọt, nhạt lắm, lại hoi hoi, con ăn chưa quen". Cả
nhà lặng người. Bố tôi tái mặt vì giận.
Tối hôm ấy trăng rằm, bà tôi kê ghế ra ngoài sân nhặt khoai lang và kể
cho tôi nghe đủ mọi chuyện. Bà kể rằng, bố tôi đã từ nơi này ra đi. Và chính
nơi này, bố tôi đã lớn lên bằng lời ru của bà, bằng đôi tay ẵm bồng của bao
người. Bà đã từng mớm cơm cho tôi, nuôi tôi khôn lớn ở đây... Tình cảm quê mùa
nhưng chân thật. Bà chỉ tay về phía góc trời sáng rực lên và bảo đó là Hà Nội.
Bà bảo rằng: " ở Hà Nội sướng hơn ở quê nên ai ai cũng ước ao được sống ở
Hà Nội, còn bà thì bà thích ở quê hơn vì bà quen mất rồi. Nếu cháu cứ ở Hà Nội
mãi, sẽ chẳng bao giờ biết được ánh trăng ở quê đẹp như thế nào đâu!"
Tôi ngước nhìn lên bầu trời xanh thẳm không một gợn mây chi chít những vì
sao. Trăng treo lơ lửng trên đầu ngọn tre in đậm lên nền trời. Anh trăng trùm
lấy mái nhà và khu vườn rau xanh tốt của bà. Lúc ấy, tôi bỗng nắm chặt lấy tay
bà và thốt lên:
"Bà ơi! Trăng ở quê đẹp thật bà ạ!..."
Sau mùa hè năm ấy, bà nội tôi đã ra đi mãi mãi. Hè nào tôi cũng xin bố
cho về thăm quê. Quê nội tôi bây giờ cũng khác hẳn, chẳng còn một tý dấu vết
nào của ngày xưa nữa. Những dãy nhà hai, ba tầng san sát nhau mọc lên như nấm.
Không ai còn nhớ nổi bóng dáng luỹ tre xanh….Tôi cầm bút viết, dồn tất cả tình
cảm nhớ thương sâu đậm với bà vào bài tập làm văn tả phong cảnh quê hương hôm
ấy… Tôi viết về quê hương tôi với luỹ tre xanh mát rượi và ánh trăng rằm dịu
ngọt. Phải rồi, tôi bỗng hiểu ra rằng: chính bà đã làm xanh mãi ước mơ của
tôi./.
(Báo BR-VT, số 1504, ra ngày 18/07/1997)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét